Thông tin thẩm định

Nâng cao năng lực và phát triển nghề thẩm định giá ở Việt Nam

NÂNG CAO NĂNG LỰC VÀ PHÁT TRIỂN NGHỀ THẨM ĐỊNH GIÁ Ở VIỆT NAM
TS. Nguyễn Văn Thọ - Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP. Thông tin và Thẩm định giá miền Nam

 

 Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới càng diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng, cuốn hút tất cả các quốc gia các dân tộc trên quả địa cầu, VN cũng nằm trong số đó không thể tránh khỏi, vì vậy Việt Nam phải tự vận động và tìm cho mình 1 hướng đi đúng phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Như một nhu cầu cấp bách trong việc vận hành nền kinh tế xã hội, ngành thẩm định giá Việt Nam đã ra đời và từng bước đi vào cuộc sống. Có thể nói rằng, ngành thẩm định giá ở Việt Nam đã có những bước đi đầu tiên khá muộn so với các nước trên thế giới, nhưng hiện tại đã, đang phát triển về chiều sâu và rộng. Có thể coi thẩm định giá là một trong những công cụ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp, của nền kinh tế, hạn chế thất thoát, tiêu cực, nâng cao khả năng cạnh tranh….

Tuy nhiên trong quá trình hình thành và phát triển hoạt động thẩm định giá nói chung và thẩm định giá bất động sản nói riêng cũng gặp nhiều bất cập. Theo giới chuyên gia, giới đầu tư nước ngoài đánh giá thị trường bất động sản Việt Nam còn rất non trẻ và mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển, trong khi đó nhận thức của người tiêu dùng trở nên “sành điệu”, do đó yếu tố lựa chọn của người tiêu dùng về “món hàng” mà họ bỏ tiền ra để mua đã có ảnh hưởng đến thị trường bất động sản.

Hơn nữa, yếu tố đầu cơ hiện nay đang là mối quan tâm của không ít các nhà đầu tư, nếu nhìn về tương lai khi phát triển thị trường bất động sản thì đầu cơ là chuyện khó thể tránh khỏi, nhưng giữa đầu cơ và đầu tư có sự khác biệt ở chỗ: đầu tư là việc mua bất động sản để sử dụng ngay, còn đầu cơ là mua bất động sản để chờ thời cơ giá tăng, hưởng chênh lệch giá.

Trong khi đó, thị trường BĐS là một trong những thị trường “đầu vào” của bất kỳ loại hình sản xuất kinh doanh nào trong nền kinh tế thị trường, nó chiếm vị trí độc tôn trong kênh phân phối đất đai cho những nhà kinh doanh trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, xây dựng công trình kiến trúc, đối với những tài sản gắn liền trên đất thì nó giữ 1 vai trò chủ yếu trong việc điều hòa cung cầu, nó thực hiện các “kích cung “ hoặc “kích cầu” theo những tín hiệu của thị trường, thị trường BĐS là nơi duy nhất chuyển những tài sản Bất động sản chưa phải là hàng hóa thành những tài sản bất động sản hàng hóa để giao dịch trên thị trường.

Vai trò của thị trường bất động sản được xác định trong mối quan hệ tác động của thị trường này đối với các thị trường khác và đối với tổng thể nền kinh tế quốc dân, hoạt động trong thị trường BĐS không chỉ có người mua và người bán BĐS, mà giữa họ với các tổ chức trung gian làm cầu nối; một trong những cầu nối đó chính là tổ chức thẩm định giá BĐS được hình thành và hoạt động tại các vùng có thị trường BĐS hoạt động mạnh, tổ chức này triển khai các hoạt động thống kê về giá cả BĐS, đưa ra những căn cứ khoa học để dự báo giá cả, công bố giá cả để làm cơ sở cho các giao dịch trên thị trường.

Do đó, xác định được những yếu tố tác động đến thị trường bất động sản không chỉ là mối quan tâm của các nhà thẩm định mà cả các nhà kinh tế, các nhà quản lý, yếu tố quan trọng đầu tiên là sự gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chính sự gia nhập này đòi hỏi Việt Nam cần phải hoàn thiện khung pháp lý về bất động sản. Yếu tố thứ hai tác động đến thị trường bất động sản đó chính là khía cạnh vĩ mô của nền kinh tế và yếu tố thứ 3 là đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

Theo nguồn tin được biết năm 2005 Việt Nam thu hút được 5,5 tỷ USD đầu tư nước ngoài, bằng 10% GDP (trong khi đầu tư nước ngoài vào Ấn Độ chỉ có 3,5 tỷ USD, vào Trung Quốc bằng 3% GDP). ... Kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc hình thành và phát triển thị trường BĐS hết sức phong phú, họ sử dụng những chính sách, công cụ riêng để điều tiết nền kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của thị trường nói chung và thị trường bất động sản nói riêng.

Như vậy rất cần phát triển thị trường bất động sản và các đối tượng tham gia thị trường không chỉ vì mục tiêu kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội, góp phần đưa Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với mong muốn cung cấp và trao đổi với bạn đọc quan tâm đến việc xây dựng và phát triển ngành thảm định ngày một nâng cao hơn và đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm góp phần nâng cao năng lực và phát triển ngành thẩm định giá Việt Nam lên một tầm cao mới.

Trong nội dung bài viết này, tôi xin đề cập đến bốn vấn đề chính: vấn đề hành lang pháp lý, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, đôi nét về các loại hình doanh nghiệp thẩm định giá ở Việt Nam và vấn đề cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác thẩm định giá. Nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất là về hành lang pháp lý cho hoạt động thẩm định giá và thẩm định giá bất động sản:

Thực tế là hành lang pháp lý cho ngành thẩm định giá ở Việt Nam được bắt đầu xây dựng vào năm 1997 và từng bước bổ sung và hoàn thiện cho đến nay. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2001 (trước khi Pháp lệnh giá được ban hành): hoạt động thẩm định giá của Việt Nam thể hiện thông qua những thể chế hóa về quản lý nhà nước đối với ngành thẩm định giá. Công tác thẩm định giá chủ yếu phát sinh từ nhu cầu mua sắm tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước, cơ quan quản lý chung đối với công tác thẩm định giá được tập trung về một cơ quan đầu mối là Ban Vật Giá Chính Phủ. Lúc đầu các đơn vị thẩm định giá chủ yếu là các Trung tâm do Ban Vật Giá Chính Phủ thành lập ở khu vực phía Bắc (Trung tâm Thẩm định giá tại Hà Nội) và khu vực phía Nam (Trung tâm Thông tin và Thẩm định giá miền Nam tại Tp. Hồ Chí Minh) phục vụ chủ yếu cho công tác thẩm định mua sắm tài sản từ nguồn ngân sách nhà nước. Hai đơn vị này hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp có thu, chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.

Đánh dấu quan trọng cho việc phát triển về Giai đoạn từ năm 2002 đến nay (sau khi Pháp lệnh Giá được ban hành): Tháng 04/2002 Pháp lệnh giá số 40/2002/PL - UBTVQH10 được Ủy Ban thường vụ Quốc hội ban hành. Trong nội dung Pháp lệnh này, Nhà nước đã quy định cụ thể hơn các hạng mục tài sản hàng hóa bắt buộc phải thông qua thẩm định giá.

Sau thời điểm đó, hàng loạt các văn bản liên quan đến việc hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh giá ra đời đã đưa Pháp lệnh giá vào cuộc sống. Đánh dấu quan trọng cho việc phát triển về hành lang pháp lý cho giai đoạn này là sự ra đời của Nghị định 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 08 năm 2005 của Chính phủ về Thẩm định giá. Nghị định này đã qui định cụ thể về nguyên tắc, phương pháp thẩm định giá, tài sản thẩm định giá, doanh nghiệp thẩm định giá… Đây là văn bản quy phạm pháp luật về thẩm định giá đầu tiên mang tính pháp lý hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay.

Song song đó, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định 21/2003/QĐ-BTC ngày 24/2/2004 ban hành qui chế cấp, sử dụng, quản lý thẻ “Thẩm định viên về giá”. Và mới đây ngày 18/4/2005 là Quyết định 24/2005/QĐ-BTC và Quyết định 77/2006/QĐ-BTC về 06 tiêu chuẩn Thẩm định giá Việt Nam. Có thể nói đây là những hành lang pháp lý quan trọng đầu tiên, tương đối hoàn chỉnh, thúc đẩy cho ngành thẩm định giá Việt Nam họat động theo khuôn khổ thống nhất và ngày càng phát triển.

Thực tế cho thấy trong thời gian qua công tác thẩm định giá bất động sản còn nhiều hạn chế, để có cơ sở pháp lý và đảm bảo cho loại hình dịch vụ thẩm định giá bất động sản ra đời chính thức, hoạt động một cách công khai, minh bạch trong một môi trường pháp lý thống nhất rõ ràng, góp phần xây dựng và phát triển thị trường bất động sản. Tại điều 57, điểm 1 Luật đất đai năm 2003 đã khẳng định: “Tổ chức có đủ điều kiện, năng lực và được hoạt động dịch vụ về giá thì được tư vấn giá đất”, đây chính là cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động tư vấn thẩm định giá bất động sản ở Việt Nam.

Thị trường bất động sản là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, để tạo lập các yếu tố của thị trường bất động sản, Chính phủ đã và đang tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, các cơ chế chính sách phù hợp với thực tiễn nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và đủ hiệu lực tạo điều kiện cho thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả. Tại Nghị quyết 06/2004/NQ-CP ngày 19/5/2004 quy định một số giải pháp phát triển lành mạnh thị trường bất động sản trong đó có đề cập đến việc để từng bước hoàn thiện cơ cấu của thị trường, lành mạnh hóa các giao dịch trên thị trường bất động sản thì việc hoàn thiện và tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức tư vấn về bất động sản là một nội dung cần được thực thi.

Nhằm mục đích tạo công bằng và đưa hoạt động tư vấn thẩm định giá bất động sản tuân theo nguyên tắc, phương pháp được xác định thống nhất, ngày 16/11/2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định 188/2004/NĐ- CP quy định về vấn đề này, tiếp đó ngày 26/11/2004 Bộ Tài chính có thông tư hướng dẫn Nghị định số 114/2004/TT-BTC cũng được ban hành. Và gần đây nhất là Nghị định số 13/2006/NĐ-CP ngày 24/01/2006 của Chính phủ về xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị tài sản của tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất và thông tư số 29/2006 ngày 04/04 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định trên. Điều này cho thấy, khung pháp lý về bất động sản luôn là vấn đề được quan tâm đầu tiên để thị trường bất động sản có thể hoạt động được, nếu hệ thống pháp lý hiệu quả sẽ tạo được sự bình đẳng trong việc tham gia vào thị trường bất động sản, có cơ chế xử lý tranh chấp hiệu quả, giảm thiểu sự can thiệp của cơ quan Nhà nước cho từng sự vụ cụ thể, hỗ trợ cho sự phát triển của công tác thẩm định giá bất động sản trong thời gian tới. Khi khung pháp lý về hoạt động thẩm định giá bất động sản được hoàn thiện thì đó chính là thời điểm quan trọng và bước ngoặt mới trong sự phát triển và lớn mạnh của nghề thẩm định giá bất động sản.

Thứ hai là về Đào tạo nhân lực cho ngành thẩm định giá

Trong công tác đào tạo nhân lực cho ngành thẩm định giá, tính đến nay công tác đào tạo học viên chuyên ngành thẩm định giá chỉ được thực hiện ở 05 trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Các trường cũng chỉ đào tạo được 04 khóa với khoảng 400 sinh viên tốt nghiệp bậc cao đẳng thẩm định giá. Từ năm 2004, các trường mới tiến hành đào tạo cử nhân thẩm định giá bậc đại học. Đối với công tác đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn, trong những năm qua Việt Nam đã đào tạo nghiệp vụ được khoảng hơn 2000 học viên và cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá.

Xét về thị trường BĐS, công tác đào tạo cán bộ quản lý thị trường bất động sản cũng được đào tạo theo nhiều hình thức, nhưng chủ yếu tập trung vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp… Ngành Quản lý đất đai, kinh doanh bất động sản, Quản lý thị trường bất động sản... là ngành học được nhiều người quan tâm. Bên cạnh đó, Hiệp hội bất động sản, các viện nghiên cứu... cũng mở các lớp đào tạo ngắn hạn như: thẩm định giá bất động sản, kỹ năng kinh doanh và quản trị doanh nghiệp bất động sản; kinh doanh bất động sản...

Tuy nhu cầu đào tạo nhân lực cho ngành thẩm định giá rất cần thiết, lớn nhưng chưa theo một quy trình thống nhất, chất lượng đào tạo chưa cao. Với nhu cầu đó, để nghề thẩm định giá nói chung và thẩm định giá bất động sản ngày một phát triển bền vững cần có một chiến lược cải cách đào tạo, xây dựng các nội dung cụ thể cho từng lĩnh vực, phương pháp đào tạo. Bên cạnh đó, cần phải có chính sách mở rộng các loại hình đào tạo, đối tượng đào tạo để có thể thực hiện đưa công tác thẩm định giá và công tác thẩm định giá BĐS vào cuộc sống.

Thứ ba là đối với hệ thống các đơn vị thẩm định giá

Hình thức tiêu biểu của các đơn vị thẩm định giá là các Trung tâm thẩm định giá. Các Trung tâm tồn tại dưới hai hình thức, một là các Trung tâm trực thuộc Bộ Tài chính và các Trung tâm thuộc sự quản lý của Sở Tài chính các địa phương. Bộ Tài chính có hai Trung tâm trực thuộc hoạt động ở hai khu vực phía Bắc và phía Nam (hiện nay đã chuyển đổi thành công ty cổ phần), đối với Trung tâm thuộc Sở hiện có 27 Trung tâm đang hoạt động trong lĩnh vực thẩm định giá ở các địa phương. Với tầm quan trọng của ngành thẩm định giá và với cơ chế mở cửa thì sẽ có rất nhiều tổ chức được hình thành có chức năng thẩm định giá hay có rất nhiều công ty tư nhân về thẩm định giá được thành lập. Hoạt động của các đơn vị này theo nhiều hình thức khác nhau.

Tuy nhiên, trên thực tế cần phải có cơ chế quản lý thống nhất và có sự kiểm soát chặt chẽ để hoạt động của các đơn vị này theo đúng quy định đối với đơn vị, tổ chức hoạt động về lĩnh vực thẩm định giá theo đúng quy định của Pháp luật, đặc biệt là theo Nghị định 101/2005/NĐ-CP ngày 03/08/3005 của Chính phủ về thẩm định giá. Hiện nay, các đơn vị này đang trong quá trình hoàn chỉnh và chuẩn bị thực hiện việc chuyển đổi thành mô hình doanh nghiệp phù hợp với những qui định của pháp luật.

Thứ tư là về cơ sở vật chất, cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động thẩm định giá nói chung và thẩm định giá bất động sản nói riêng ở Việt Nam mới được hình thành cách đây không lâu, chính vì điều đó vấn đề cơ sở vật chất nhưng quan trọng hơn là cơ sở dữ liệu phục vụ công tác thẩm định giá hầu như chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành đề ra. Đa số các dữ liệu phục vụ cho công tác thẩm định giá được các đơn vị tự xây dựng nhưng với mức độ rất nghèo nàn. Trong quá trình thẩm định các doanh nghiệp thường gặp rất nhiều khó khăn về các dữ liệu trong quá khứ, chính vì điều đó mà khả năng đáp ứng đối với yêu cầu của khách hàng không được thỏa mãn thật sự.

Từ những thực tế nêu trên có thể thấy rằng nghề thẩm định giá nói chung và thẩm định giá bất động sản nói riêng ở Việt Nam đã hình thành và dần hoàn thiện đi vào hoạt động một cách tích cực. Và cũng từ thực tế đó, nghề thẩm định giá Việt Nam đã và đang tồn tại các vấn đề gây trở ngại đến quá trình vận hành trên một bước phát triển cao hơn. Ở đây chúng tôi muốn nêu ra những mặt hạn chế lớn làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển của nghề thẩm định giá, các hạn chế đó bao gồm:

  • Về hành lang pháp lý, về cơ bản có thể thấy rằng với hệ thống hành lang pháp lý nêu trên đã cơ bản đáp ứng được những vấn đề chung của nghề thẩm định giá. Song, do việc quản lý ngành thẩm định giá chưa được thống nhất, các cơ quan ban ngành khác nhau lại tự đưa ra những qui chuẩn về thẩm định giá đối với việc thẩm định các tài sản mang tính đặc thù của ngành đó, từ đó dẫn tới là có sự chồng chéo trong quản lý, trong các văn bản pháp luật giữa các ngành. Hệ thống các văn bản pháp luật nêu trên chưa được triển khai sâu rộng trong nhân dân, các thành phần kinh tế xã hội làm cho mức độ ảnh hưởng của ngành thẩm định giá là chưa cao.
  • Về nhân lực cho ngành thẩm định giá, với việc chỉ mới chú trọng cho công tác đào tạo trong thời gian gần đây chính vì thế mà nguồn nhân lực phục vụ cho công tác thẩm định giá còn thiếu và chưa đảm bảo chất lượng. Ngành thẩm định giá là một ngành kinh tế tổng hợp, trong khi đó các sinh viên được đào tạo dài hạn chỉ được giảng dạy chuyên về lý luận chung làm cho khả năng đáp ứng được yêu cầu của công tác thẩm định giá đặt ra là chưa cao. Lực lượng giảng viên chuyên ngành thẩm định giá ở các trường chủ yếu tốt nghiệp chuyên ngành vật giá trước đây và các ngành kinh tế khác, chưa được đào tạo chuyên sâu dài hạn về thẩm định giá. Nội dung chương trình chưa được thống nhất hóa, chủ yếu do các trường tự biện soạn, giáo trình chưa gắn với thực tiễn công tác thẩm định giá Việt Nam.
  • Đối với các đơn vị thẩm định giá, thiếu một sự quản lý chung, đặc biệt là quản lý về chất lượng của công tác thẩm định giá, nhiều đơn vị trong quá trình thẩm định giá của mình đã thực hiện chưa đúng các tiêu chuẩn đề ra theo yêu cầu của ngành thẩm định giá. Do tính mới mẽ của ngành thẩm định giá, nhiều đơn vị cố gắng để đáp ứng các tiêu chuẩn của một doanh nghiệp thẩm định giá, song xét về kinh nghiệm công tác thì chưa đáp ứng được nhu cầu đề ra. Việc tồn tại nhiều Trung tâm thẩm định giá không đủ chức năng thẩm định giá đã tạo ra một sự không công bằng trong vấn đề tham gia cung cấp dịch vụ thẩm định giá.
  • Về cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác thẩm định giá, có thể thấy rằng đây là mảng thiếu sót lớn đối với ngành thẩm định giá Việt Nam, và cũng chính vì điều này thể hiện sự yếu kém trong việc thỏa mãn yêu cầu của khách hàng, khả năng nâng cao năng lực trong ngành sẽ bị hạn chế. Trên tất cả những nội dung đó, việc thiếu nguồn thông tin sẽ là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sai lệch kết quả và chắc chắn tạo ra sự thiệt hại về kinh tế cho các đối tượng khách hàng có yêu cầu thẩm định giá (ngày cả đối với nhà nước).

Như vậy, với những thực trạng về ngành thẩm định giá của Việt Nam như tôi đã nêu ở trên, đó là những bước trở ngại đối với quá trình phát triển của nghề thẩm định giá ở Việt Nam. Với nội dung bài tham luận này, chúng tôi muốn nêu lên những để xuất của mình, có thể đó là những đề nghị chủ quan nhưng tôi tin rằng đây có thể là giải pháp nâng cao năng lực và tạo động lực phát triển cho ngành thẩm định giá Việt Nam.

  • Thứ nhất, giải pháp cho vấn đề về hoàn chỉnh hành lang pháp lý, để có một sự phát triển đồng bộ, thống nhất từ trên xuống nhất thiết phải xây dựng một hệ thống pháp luật chung cho ngành thẩm định giá, và từng bước nâng lên thành Luật Thẩm định giá cho ngành thẩm định giá để tránh sự chồng chéo trong chủ trương và khâu thực hiện. Các văn bản pháp luật trước khi ban hành cần lấy ý kiến rộng rãi của các thành phần để nó được phù hợp với thực tế, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèm thổi ngược”. Cần xem xét chuyển việc quản lý các vấn đề liên quan đến nghiệp vụ, đào tạo, hợp tác quốc tế… cho Hội Thẩm định giá Việt Nam để Hội có thể phát huy vai trò liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp, giữa ngành thẩm định giá Việt Nam và thẩm định giá thế giới.
  • Thứ hai là về công tác đào tạo, chúng tôi cho rằng điều kiện tiên quyết để xây dựng ngành thẩm định giá Việt Nam mạnh lên trong khu vực đó là yếu tố đào tạo con người. Hiện tại việc đào tạo chuyên viên về thẩm định giá của Việt Nam nói chung là chưa đáp ứng được yêu cầu về nghiệp vụ đề ra, quá trình đào tạo chủ yếu là lý thuyết, chưa kết hợp việc huấn luyện thực tế, hệ thống các môn cơ sở phục vụ cho việc đào tạo về thẩm định giá là chưa phù hợp… đó là vấn đề mà chúng tôi cần phải điều chỉnh cho hợp lý. Bên cạnh đó, theo tôi là không thể thiếu sự hợp tác đào tạo quốc tế đối với ngành thẩm định giá Việt Nam và để thực hiện được cần phải có nguồn kinh phí lớn trong khi kinh phí cho việc đào tạo tại Việt Nam còn rất hạn chế.
  • Thứ ba là vấn đề về doanh nghiệp thẩm định giá, theo quan điểm của tôi là phải thực hiện kiên quyết về quy định hình thức đối với doanh nghiệp thẩm định giá, không thể để tồn tại nhiều hình thức đơn vị thẩm định giá như hiện nay, có như thế mới tạo ra được sự cạnh tranh công bằng, và có như thế mới tạo ra động lực cho sự phát triển. Cần phải xem xét lại việc đưa doanh nghiệp kiểm toán tham gia vào công tác thẩm định giá vì điều này sẽ không hợp lý, bởi vấn đề tiêu chuẩn thực hiện của ngành kiểm toán hoàn toàn khác so với ngành thẩm định giá, các cơ sở thị trường sẽ không được đảm bảo.
  • Thứ tư là về cơ sở dữ liệu phục vụ cho thẩm định giá, cần xúc tiến nhanh việc xây dựng Trung tâm lưu trữ thông tin phục vụ cho công tác thẩm định giá, Trung tâm này sẽ đóng vai trò là nơi dự trữ thông tin nguồn và chia sẽ thông tin cho các doanh nghiệp thẩm định giá trong cả nước. Trung tâm cũng đóng vai trò là nơi phân tích, dự báo xu hướng biến động về giá và hoạt động dưới hình thức là đơn vị sự nghiệp có thu. Để việc xây dựng được một Trung tâm lưu trữ thông tin đủ mạnh, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp cần phải có sự phối hợp của nhiều ban ngành về hỗ trợ kinh phí, về thu thập thông tin quá khứ đảm bảo cho nó hoạt động một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thẩm định giá cần chủ động xây dựng cho mình cho mình một cơ sở dữ liệu cơ bản để có thể đảm bảo cho hoạt động của mình một cách bền vững, nâng cao khả năng cạnh trạnh của đơn vị.

Với mong muốn xây dựng, nâng cao năng lực, phát triển nghề thẩm định giá nói chung và thẩm định giá bất động sản nói riêng tại Việt Nam. Với chủ đề này, tôi hy vọng sẽ có những đóng góp mới vào sự phát triển ngành thẩm định giá của khu vực và đặc biệt là của Việt Nam. Từ đó, có thể xúc tiến tốt hơn các mối quan hệ kinh tế - xã hội, đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế.

Hỗ trợ trực tuyến
Mr. Khang: 0975.18.33.66
Mr. Hà: 0914.338.348
0975.18.33.66
Thông tin thẩm định
Văn bản pháp luật
Quảng cáo